Về quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người nước ngoài

Luật365

Tại TP.Hà Nội: Tầng 3 – Toà nhà IC – Số 82 Duy Tân – Phường Dịch Vọng Hậu – Quận Cầu Giấy – TP. Hà Nội

Tại TP. HCM: Tầng 18 – Toà nhà Indochina Park – Số 04 Nguyễn Đình Chiểu, Phường Đa Kao – Quận 1 – TP.HCM

Tại TP. Đà Nẵng: Tầng 6, Toà nhà Dầu khí, số 2 đường 30-4, phường Hoà Cường Bắc, quận Hải Châu – TP. Đà Nẵng

luat365@lawpro.vn

Luật365

Tại TP.Hà Nội: Tầng 3 – Toà nhà IC – Số 82 Duy Tân – Phường Dịch Vọng Hậu – Quận Cầu Giấy – TP. Hà Nội

Tại TP. HCM: Tầng 18 – Toà nhà Indochina Park – Số 04 Nguyễn Đình Chiểu, Phường Đa Kao – Quận 1 – TP.HCM

Tại TP. Đà Nẵng: Tầng 6, Toà nhà Dầu khí, số 2 đường 30-4, phường Hoà Cường Bắc, quận Hải Châu – TP. Đà Nẵng

luat365@lawpro.vn

Công văn số5027/BXD-QLN của Bộ Xây Dựng ngày 08 tháng 11 năm 2022

Bộ Xây dựng nhận được văn bản số 2599/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ ngày 14/10/2022 của Tổng cục Quản lý đất đai đề nghị hướng dẫn về số lượng căn hộ chung cư mà tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu tại các dự án đầu tư xây dựng nhà ở. Sau khi nghiên cứu, Bộ Xây dựng có ý kiến như sau:

Tại Điều 161 của Luật Nhà ở 2014 và các Khoản 2, 3, 4 Điều 76 của Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở chỉ có quy định về tổng số nhà ở (căn hộ hoặc nhà ở riêng lẻ) mà tổ chức, cá nhân nước ngoài (có thể một hoặc nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài) được phép sở hữu. Cụ thể là không vượt quá 30% số căn hộ tại mỗi tòa nhà chung cư và không quá 30% tổng số căn hộ của tất cả các tòa nhà chung cư trên một địa bàn;

Trường hợp là nhà riêng lẻ tại dự án thì được sở hữu không vượt quá 10% số lượng nhà ở trong dự án và không vượt quá 250 căn trong tổng số nhà ở riêng lẻ tại các dự án trên một địa bàn có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường.

Khoản 2 Điều 3 Luật Nhà ở 2014 quy định về nhà ở riêng lẻ như sau:

“Nhà ở riêng lẻ là nhà ở được xây dựng trên thửa đất ở riêng biệt thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, bao gồm nhà biệt thự, nhà ở liền kề và nhà ở độc lập.”

Pháp luật về nhà ở không quy định số lượng nhà ở mà mỗi cá nhân, tổ chức được sở hữu. Do đó, đề nghị Tổng cục Quản lý đất đai căn cứ vào các quy định của pháp luật về nhà ở để thực hiện.

Trên đây là ý kiến của Bộ Xây dựng trả lời văn bản số 2599/TCQLĐĐ- CĐKĐĐ ngày 14/10/2022, đề nghị Tổng cục Quản lý đất đai nghiên cứu và thực hiện theo quy định pháp luật./.